§ 12. Then a large number of monks went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side.

As they were sitting there, they informed him:

"Lord, there is a certain monk by the name of Elder who lives alone and extols the virtues of living alone."

Rồi các Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

Ở đây, bạch Thế Tôn, có Tỷ-kheo tên là Theranàmaka sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú. Vị ấy đi vào làng khất thực một mình, đi về một mình, ngồi vắng lặng một mình, đi kinh hành một mình.

 

Then the Blessed One told a certain monk,

"Come, monk. In my name, call the monk named Elder, saying, 'The Teacher calls you, my friend'"...

Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:

Này Tỷ-kheo, hãy đến, hãy nhân danh Ta gọi Tỷ-kheo Thera: "Này Hiền giả Thera, bậc Đạo Sư gọi Hiền giả".

Then Ven. Elder went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there, the Blessed One said to him,

"Is it true, Elder, that you live alone and extol the virtues of living alone?"

"Yes, lord."

 

Tôn giả Thera vâng đáp Tỷ-kheo ấy và đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, vị ấy đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với tỳ kheo Elder:

Có thật chăng, này Thera, Ông sống độc trú và tán thán hạnh độc trú?

Thưa có, bạch Thế Tôn.

"But how do you live alone and extol the virtues of living alone?"

 

Như thế nào, này Thera, Ông sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú?

 

"Lord, alone I enter the village for alms, alone I return, alone I sit withdrawn [in meditation], alone I do walking meditation. That is how I live alone and extol the virtues of living alone."

Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi vào làng khất thực một mình, con đi về một mình, con ngồi vắng lặng một mình, con đi kinh hành một mình. Như vậy, bạch Thế Tôn, con sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú.

"There is that way of living alone, Elder. I don't say that there isn't. Still, listen well to how your living alone is perfected in its details, and pay close attention. I will speak."

"As you say, lord," Ven. Elder responded.

 

Đấy là sống độc trú, này Thera, Ta không nói đấy không phải vậy. Này Thera, có một cách làm viên mãn độc trú với các chi tiết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.

Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

 

The Blessed One said: "And how is living alone perfected in its details? There is the case where whatever is past is abandoned, whatever is future is relinquished, and any passion & desire with regard to states of being attained in the present is well subdued. That is how living alone is perfected in its details."

 

Này Thera, thế nào là độc trú được làm viên mãn với các chi tiết? Ở đây, này Thera, cái gì đã qua được đoạn tận; cái gì sắp đến được từ bỏ; đối với những tự ngã, lợi đắc hiện tại, dục tham được khéo nhiếp phục. Như vậy, này Thera, là độc trú được làm viên mãn với các chi tiết.

 

That is what the Blessed One said. Having said it, the One Well-gone further said this:

"All-conquering,

all-knowing, intelligent;

with regard to all things, unadhering;

all-abandoning,

released in the ending of craving:

him I call a man who lives alone."

SN 21.10

Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm:

Ai chiến thắng tất cả,
Ai hiểu biết tất cả,
Ai là bậc Thiện trí,
Mọi pháp không ô nhiễm.
Ai từ bỏ tất cả,
Ái tận được giải thoát,
Ta nói chính người ấy,
Thật là vị độc trú

SN 21.10

§ 13. Then Ven. Migajala went to the Blessed One and on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One:

"'A person living alone. A person living alone,' thus it is said. To what extent, lord, is one a person living alone, and to what extent is one a person living with a companion?"

 

 

Tôn giả Migajàla đi đến Thế Tôn. Sau khi đến đãnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Migajàla bạch Thế Tôn:


- "Sống một mình! Sống một mình!", bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là sống một mình? Và cho đến như thế nào là sống có người thứ hai?

 

"Migajala, there are forms cognizable via the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing — and a monk relishes them, welcomes them, & remains fastened to them. As he relishes them, welcomes them, & remains fastened to them, delight arises. There being delight, he is impassioned. Being impassioned, he is fettered. A monk joined with the fetter of delight is said to be living with a companion.

 

 

Này Migajàla, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến sắc ấy ; do vị ấy hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến sắc ấy nên hỷ (nandi) khởi lên. Do hỷ có mặt nên dục tham (sàràgo) có mặt. Do dục tham có mặt nên triền phược có mặt. Bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajàla, nên Tỷ-kheo được gọi là người sống có người thứ hai.

 

[Similarly with sounds, aromas, flavors, tactile sensations, & ideas.]

99999

"A person living in this way — even if he frequents isolated forest & wilderness dwellings, with an unpopulated atmosphere, lying far from humanity, appropriate for seclusion — is still said to be living with a companion. Why is that? Because craving is his companion, and it has not been abandoned by him. Thus he is said to be living with a companion.

 

Tỷ-kheo sống như vậy, này Migajàla, dầu cho đến ở các trú xứ xa vắng, các khóm rừng, các khu rừng, ít tiếng động, ít ồn ào, khỏi hơi thở quần chúng (vijanavàtàni), vắng người, thích hợp với tịnh; dầu vậy, vẫn được gọi là sống với người thứ hai. Vì sao? Vì rằng ái, người thứ hai, chưa được đoạn tận cho nên được gọi là sống có người thứ hai.

"Now, there are forms cognizable via the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing — and a monk does not relish them, welcome them, or remain fastened to them. As he doesn't relish them, welcome them, or remain fastened to them, delight ceases. There being no delight, he is not impassioned. Being not impassioned, he is not fettered. A monk disjoined from the fetter of delight is said to be living alone.

Và này Migajala, có các sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán dương và trú với lòng không tham luyến pháp ấy; thời do vị ấy không hoan hỷ, không tán dương trú với lòng không tham luyến pháp ấy, nên hỷ đoạn diệt; thời do hỷ không có mặt nên dục tham không có mặt. Do dục tham không có mặt nên triền phược không có mặt. Do không bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajàla, nên Tỷ-kheo được gọi là người trú một mình.

[Similarly with sounds, aromas, flavors, tactile sensations, & ideas.]

 

999999

"A person living in this way — even if he lives near a village, associating with monks & nuns, with male & female lay followers, with kings & royal ministers, with sectarians & their disciples — is still said to be living alone. A person living alone is said to be a monk. Why is that? Because craving is his companion, and it has been abandoned by him. Thus he is said to be living alone."

SN 35.63

 

Tỷ-kheo sống như vậy, này Migajàla, dầu có ở giữa làng tràn đầy những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, vua chúa, đại thần của vua, các ngoại đạo và các đệ tử các ngoại đạo, vị ấy vẫn được gọi là vị sống một mình. Vì sao? Vì rằng ái, người thứ hai, được đoạn tận, do vậy được gọi là sống một mình.

SN 35.63

IV. Non-entanglement[go up]

IV. Khong Hoi Tụ[go up]

§ 14. I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Now at that time a certain lay follower from Icchanangalaka had arrived in Savatthi on some business affairs. Having settled his affairs in Savatthi, he went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there, the Blessed One said to him, "At long last you have managed to come here."

 

 

Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, một nam cư sĩ tên là Icchànanga-laka đi đến Sàvatthi vì một vài công việc phải làm. Nam cư sĩ ấy, sau khi làm công việc xong ở Sàvatthi, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với nam cư sĩ ấy đang ngồi một bên: - Ðã lâu rồi, này Nam cư sĩ, ông tạo nên cơ hội này, tức là đến đây!

"For a long time I have wanted to come see the Blessed One, lord, but being involved in one business affair after another, I haven't been able to do so."

 

- Bạch Thế Tôn, đã lâu rồi, con muốn yết kiến Thế Tôn. Nhưng con bị bận bịu lợi bởi những công việc phải làm này nên con không thể đi đến yết kiến Thế Tôn được.

Then, on realizing the significance of that, the Blessed One on that occasion exclaimed:

How blissful it is, for one who has nothing

who has mastered the Dhamma,

is learned.

See how they suffer,

those who have something,

people bound in body with people.

Ud 2.5

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

Ai lão luyện Chánh pháp,

Ðược nghe nhiều Chánh pháp,

Không xem bất cứ gì

Là an lạc của mình.

Hãy xem, não hại thay,

Những ai có sở hữu,

Khiến cho con người này,

Bị trói buộc người khác

Ud 2.5

 

§ 15. "'This Dhamma is for one who is reclusive, not for one who is entangled.' Thus was it said. With reference to what was it said? There is the case where a monk, when living in seclusion, is visited by monks, nuns, lay men, lay women, kings, royal ministers, sectarians & their disciples. With his mind bent on seclusion, tending toward seclusion, inclined toward seclusion, aiming at seclusion, relishing renunciation, he converses with them only as much is necessary for them to take their leave."

AN 8.30

 

Này các Tỳ-kheo, Pháp này để cho người sống viễn ly, Pháp này không để cho người ưa hội chúng, như vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống viễn ly, có nhiều người đến thăm như tỷ kheo, Ty kheo-Niganthà, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, vua chúa, đại thần, các ngoại đạo sư, đệ tử của các ngoại đạo sư. Ở đây, Tỷ-kheo với tâm thuận về viễn ly, hướng về viễn ly, nhập vào viễn ly, trú vào viễn ly, thích thú xuất ly, nói lời hoàn toàn liên hệ đến lánh xa.


AN 8.30

 

 

V. Persistence[go up]

 

V. Tinh Tấn[go up]

§ 16. "'This Dhamma is for one whose persistence is aroused, not for one who is lazy.' Thus was it said. With reference to what was it said? There is the case where a monk keeps his persistence aroused for abandoning unskillful mental qualities and taking on skillful mental qualities. He is steadfast, solid in his effort, not shirking his duties with regard to skillful mental qualities."

AN 8.30

 

Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn, Pháp này không để cho người biếng nhác, như vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống tinh cần tinh tấn, đoạn tận các pháp bất thiện, thành tựu các Pháp thiện, nỗ lực kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp.


AN 8.30

$ 17.

As if struck by a sword,

as if his head were on fire,

a monk should live the wandering life

— mindful —

for the abandoning of sensual passion

Thag 1.39

 

 

Như bị kiếm chém xuống,

Như bị lửa cháy đầu,

Vị Tỷ-kheo xuất gia,

Chánh niệm, đoạn tham dục.

Thag 1.39

§ 18. "These are the five factors for exertion. Which five?

Này các Tỷ-kheo, có năm chi phần tinh cần này. Thế nào là năm?

[a] "There is the case where a monk has conviction, is convinced of the Tathagata's Awakening: 'Indeed, the Blessed One is worthy and rightly self-awakened, consummate in knowledge & conduct, well-gone, an expert with regard to the world, unexcelled as a trainer for those people fit to be tamed, the Teacher of divine & human beings, awakened, blessed.'

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc. Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, điều Ngự Trượng Phu, Phật, Thế Tôn.

 

[b] "The monk is free from illness & discomfort, endowed with good digestion — not too cold, not too hot, of moderate strength — fit for exertion.

Ngài ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình hợp với tinh tấn.

[c] "He is neither fraudulent nor deceitful. He declares himself to the Teacher or to his wise friends in the holy life in line with what he actually is.

Ngài không lừa đảo, dối gạt, nêu rõ mình như chân đối với bậc Đạo sư, đối với các vị sáng suốt hay đối với các vị đồng Phạm hạnh.

[d] "He keeps his persistence aroused for abandoning unskillful mental qualities and taking on skillful mental qualities. He is steadfast, solid in his effort, not shirking his duties with regard to skillful mental qualities.

 

Ngài sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tự các thiện pháp, kiên trì, nỗ lực, không tránh né đối với các thiện pháp.

[e] "He is discerning, endowed with discernment leading to the arising of the goal — noble, penetrating, leading to the right ending of stress.

"These are the five factors for exertion."

AN 5.53

 

Ngài có trí tuệ, thành tựu trí tuệ hướng đến sanh diệt (của các Pháp), thành tựu thánh thể nhập, đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau.

Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm chi phần tinh cần.

AN 5.53

§ 19. "Furthermore, the monk finds pleasure & delight in developing [skillful mental qualities], finds pleasure & delight in abandoning [unskillful mental qualities]. He does not, on account of his pleasure & delight in developing & abandoning, exalt himself or disparage others. In this he is diligent, deft, alert, & mindful. This is said to be a monk standing firm in the ancient, original traditions of the noble ones."

AN 4.28

 

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ưa thích tu tập, vui thích tu tập, ưa thích đoạn tận, vui thích đoạn tận, nhưng không vì ưa thích tu tập, vui thích tu tập, ưa thích đoạn tận, vui thích đoạn tận mà khen mình chê người. Ai ở đây khôn khéo, không có thụ động, tỉnh giác, chánh niệm, này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đứng trên Thánh truyền thông, kỳ cựu, được nhận biết là tối sơ.


AN 4.28

§ 20. "And how is a monk devoted to wakefulness? There is the case where a monk during the day, sitting & pacing back & forth, cleanses his mind of any qualities that would hold the mind in check. During the first watch of the night [dusk to 10 p.m.], sitting & pacing back & forth, he cleanses his mind of any qualities that would hold the mind in check. During the second watch of the night [10 p.m. to 2 a.m.], reclining on his right side, he takes up the lion's posture, one foot placed on top of the other, mindful, alert, with his mind set on getting up [either as soon as he awakens or at a particular time]. During the last watch of the night [2 a.m. to dawn], sitting & pacing back & forth, he cleanses his mind of any qualities that would hold the mind in check. This is how a monk is devoted to wakefulness."

AN 4.37

 

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo chú tâm cảnh giác ?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ban ngày đi kinh hành, hay trong lúc ngồi, tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm, canh một, vị ấy đi kinh hành hay trong lúc ngồi tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm, canh giữa, vị ấy nằm dáng nằm con sư tử bên hông tay phải, một chân đặt trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tâm nghĩ đến thức dậy lại. Ban đêm, canh cuối, vị ấy thức dậy đi kinh hành hay trong lúc ngồi, tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại.

AN 4.37

§ 21

[The Buddha:]

To me — resolute in exertion

near the river Nerañjara,

making a great effort,

doing jhana to attain rest from the yoke —

Namuci1 came,

speaking words of compassion:

"You are ashen, thin. Death is in your presence.

Death has 1,000 parts of you.

Only one part is your life. Live, good sir! Life is better.

 

Bên sông Ni-liên-thuyền,
Ta tinh cần tinh tấn,
Cố gắng, Ta thiền định,
Ðạt an ổn khổ ách.

 

 

 

Ác ma đến gần Ta,
Nói lên lời từ mẫn,
Ông ốm không dung sắc,
Ông đã gần chết rồi

 

Cả ngàn phần, Ông chết,
Chỉ một phần còn sống,
Hãy sống, sống tốt hơn,
Sẽ làm các công đức.

Alive, you can do acts of merit.

Your living the holy life,

performing the fire sacrifice, will heap up much merit

. What use is exertion to you?

 

Hard to follow

— the path of exertion — hard to do, hard to sustain."

 

Cả ngàn phần, Ông chết,
Chỉ một phần còn sống,
Hãy sống, sống tốt hơn,
Sẽ làm các công đức.

Như Ông sống Phạm hạnh,
Hãy đốt lửa tế tự,
Hãy chất chứa công đức,
Ông tinh tấn làm gì?

Khó thay, đường tinh tấn,
Khó làm, khó đạt được.
Ác ma đứng gần Phật,
Nói lên những kệ này.

Saying these verses,

Mara stood in the Awakened One's presence.

And to that Mara, speaking thus,

the Blessed One said this:

"Kinsman of the heedless, Evil One,

come here for whatever purpose: I haven't, for merit, even the least bit of need.

Those who have need of merit: those are the ones Mara's fit to address.

Thế Tôn đã đáp lại
Lời Ác ma như sau:
Bà con ác phóng dật,
Ngươi đến đây làm gì?

 

Với công đức nhỏ bé,
Ta đâu có cần đến?
Với ai cần công đức,
Ác ma đáng nói chúng.

In me are conviction austerity, persistence, discernment.

Why, when I'm so resolute do you petition me to live?

This wind could burn up even river currents.

Why, when I'm resolute, shouldn't my blood dry away?

As my blood dries up gall & phlegm dry up.

As muscles waste away, the mind grows clearer; mindfulness, discernment, concentration stand more firm.

Staying in this way, attaining the ultimate feeling,2 the mind has no interest in sensual passions.

See: a being's purity!

 

Ðây có tín, tinh tấn,
Và Ta có trí tuệ,
Như vậy, Ta tinh tấn,
Sao Ngươi hỏi Ta sống?

 

 

Dầu máu có khô cạn,
Mật, đàm Ta khô cạn,
Dầu thịt có hủy hoại,
Tâm Ta càng tịnh tín,
Ta lại càng vững trú,
Niệm, tuệ và thiền định.

Do Ta sống như vậy,
Ðạt được thọ tối thượng,
Tâm không cầu các dục,
Nhìn chúng sanh thanh tịnh.

Sensual passions are your first army.

Your second is called Discontent.

Your third is Hunger & Thirst.

Your fourth is called Craving. Fifth is Sloth & Torpor.

Sixth is called Terror.

Your seventh is Uncertainty. Hypocrisy & Stubbornness,

your eighth. Gains, Offerings, Fame, & Status wrongly gained,

 

 

 

and whoever would praise self & disparage others.

Dục, đội quân thứ nhất.

Thứ hai, gọi bất lạc,

Thứ ba, đói và khát,

Thứ tư, gọi tham ái.

Năm, hôn trầm thụy miên,

Thứ sáu, gọi sợ hãi,

Thứ bảy, gọi nghi ngờ,

Tám, dèm pha ngoan cố.


Lợi, danh và cung kính,
Danh vọng được tà vạy,
Ai tự đề cao mình,
Hủy báng các người khác

That, Namuci, is your army, the Dark One's commando force.

A coward can't defeat it, but one having defeated it gains bliss.

Do I carry muñja grass?3 I spit on my life. Death in battle would be better for me than that I, defeated, survive.

 

Sinking here, they don't appear, some priests & contemplatives.

They don't know the path by which those with good practices go.

Ôi, này Na-mu-ci,
Ðây là quân đội Ngươi,
Ðây quân đội chiến trận,
Của dòng họ Kanhà,
Kẻ nhát, không thắng Ngươi,
Ai thắng Ngươi, được lạc.

Ta mang cỏ munja,
Vững thay, đây đời sống,
Thà Ta chết chiến trận,
Tốt hơn, sống thất bại.

Bị thấy đắm ở đây,
Số Sa-môn, Phạm chí,
Không biết được con đường,
Bậc giới đức thường đi.

Seeing the bannered force on all sides — the troops, Mara along with his mount — I go into battle.

 

May they not budge me from my spot. That army of yours, that the world with its devas can't overcome, I will smash with discernment — as an unfired pot with a stone.

 

Making my resolve mastered, mindfulness well-established, I will go about, from kingdom to kingdom, training many disciples.

 

 

They — heedful, resolute, doing my bidding — despite your wishes, will go where, having gone, there's no grief."

Thấy khắp quân đội dàn,
Ác ma trên lưng voi,
Ta bước vào chiến trận,
Không để ai chiếm đoạt.

Ðội ngũ quân nhà Ngươi,
Ðời này và chư Thiên,
Không một ai thắng nổi,
Ta đến Ngươi với tuệ,
Như hòn đá dập nát,
Chiếc bát chưa nung chín.

Nhiếp phục được tâm tư,
Khéo an trú chánh niệm,
Ta sẽ đi bộ hành,
Nước này qua nước khác,
Ðể huấn luyện rộng rãi,
Cho những người đệ tử.

445. Không phóng dật, tinh cần,
Họ hành lời Ta dạy,
Dầu Ngươi không muốn vậy,
Họ vẫn sẽ đi tới,
Chỗ nào họ đi tới,
Chỗ ấy không sầu muộn

[Mara:]

"For seven years, I've dogged the Blessed One's steps, but haven't gained an opening in the One Self-awakened & glorious.

 

A crow circled a stone the color of fat

— 'Maybe I've found something tender here. Maybe there's something delicious'

 

— but not getting anything delicious there, the crow went away. Like the crow attacking the rock, I weary myself with Gotama."

As he was overcome with sorrow, his lute fell from under his arm. Then he, the despondent spirit, right there disappeared

Sn 3.2

Ác-ma

Bảy năm, ta bước theo,
Chân theo chân Thế Tôn,
Không tìm được lỗi lầm,
Nơi Thế Tôn chánh niệm.

 

Như quạ bay xung quanh,
Hòn đá như đống mỡ,
Có thể có gì mềm?
Có thể có gì ngọt?

Không tìm được gì ngọt,
Quạ từ đó bay đi,
Như quạ mổ hòn đá,
Ta bỏ Gotama.

Bị sầu muộn chi phối,
Cây đàn rơi khỏi nách,
Kẻ Dạ-xoa ác ý,
Tại đấy liền biến mất.

Bản dịch của HT Thích Minh Châu: Snp III.2

 

 

Notes

1. Mara.

2. The highest equanimity that can be attained through jhana.

3. Muñja grass was the ancient Indian equivalent of a white flag. A warrior expecting that he might have to surrender would take muñja grass into battle with him. If he did surrender, he would lie down with the muñja grass in his mouth. The Buddha, in asking this rhetorical question, is indicating that he is not the type of warrior who would carry muñja grass. If defeated, he would rather die than surrender.

 

9999

§ 22. Even if a monk isn't skilled in the ways of the minds of others (isn't skilled in reading the minds of others), he should train himself: 'I will be skilled in reading my own mind.'

 

-"Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, không thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, thời cần phải nguyện rằng : "Ta sẽ thiện xảo trong hành tướng tâm của ta."

 

 

And how is a monk skilled in reading his own mind? Imagine a young woman — or man — fond of adornment, examining the image of her own face in a bright, clean mirror or bowl of clear water: If she saw any dirt or blemish there, she would try to remove it. If she saw no dirt or blemish there, she would be pleased, her resolves fulfilled: 'How fortunate I am! How clean I am!'

In the same way, a monk's self-examination is very productive in terms of skillful qualities [if he conducts it in this way]: Do I usually remain covetous or not? With thoughts of ill will or not? Overcome by sloth & drowsiness or not? Restless or not? Uncertain or gone beyond uncertainty? Angry or not? With soiled thoughts or unsoiled thoughts? With my body aroused or unaroused? Lazy or with persistence aroused? Unconcentrated or concentrated?'

 

Như vậy, như thế nào, Tỷ-kheo thiện xảo trong hành tướng tâm của mình ?" Ví như, này các Tỷ-kheo, một người đàn bà hay một người đàn ông, còn trẻ, trong tuổi thanh niên, tánh ưa trang điểm, quán sát hình ảnh mặt mình trong tấm gương thanh tịnh trong sáng, hay trong một bát nước trong. Nếu thấy trên mặt có hột bụi hay dấu nhớp gì, người ấy cố gắng đoạn bụi hay dấu nhớp ấy. Nếu không thấy hột bụi hay dấu nhớp, người ấy hoan hỷ, thỏa mãn : "Thật lợi đắc cho ta ! Ta thật là trong sạch ! "

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát như vậy, được nhiều lợi ích trong các thiện pháp. "Có phải ta sống nhiều với tham ? Có phải ta sống nhiều với tâm có sân ? Có phải ta sống nhiều vớt tâm không có sân ? Có phải ta sống nhiều với hôn trầm thụy miên chi phối, hay ta sống nhiều với trạo cử, hay ta sống nhiều với không trạo cử ? Có phải ta sống nhiều với nghi ngờ, hay ta sống nhiều vượt qua được nghi ngờ ? Có phải ta sống nhiều với phẫn nộ, hay ta sống nhiều không bị phẫn nộ ? Có phải ta sống nhiều với tâm bị ô nhiễm, hay ta sống nhiều với tâm không bị ô nhiễm ? Có phải ta sống nhiều với thân nhiệt nóng, hay ta sống nhiều với thân không nhiệt nóng ? Có phải ta sống nhiều với biếng nhác, hay ta sống nhiều với tinh tấn, tinh cần ? Có phải ta sống nhiều với không định tĩnh, hay ta sống nhiều với định tĩnh ? "

If, on examination, a monk knows, 'I usually remain covetous, with thoughts of ill will, overcome by sloth & drowsiness, restless, uncertain, angry, with soiled thoughts, with my body aroused, lazy, or unconcentrated,' then he should put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness for the abandoning of those very same evil, unskillful qualities, just as when a person whose turban or head was on fire would put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness to put out the fire on his turban or head...

Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo quán sát như vậy, biết rằng : "Ta sống nhiều với tâm tham ; ta sống nhiều với tâm sân ; ta sống nhiều với tâm bị hôn trầm thụy miên chi phối ; ta sống nhiều với trạo cử ; ta sống nhiều với nghi ngờ ; ta sống nhiều với phẫn nộ ; ta sống nhiều với tâm bị nhiễm ô ; ta sống nhiều với thân nhiệt nóng ; ta sống nhiều với biếng nhác ; ta sống nhiều với không định tĩnh", thời Tỷ-kheo ấy cần phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối, chánh niệm, tỉnh giác để đoạn tận các pháp ác bất thiện ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi khăn bị cháy, hay khi đầu bị cháy, cần phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối, chánh niệm, tỉnh giác để dập tắt khăn ấy cần phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối, chánh niệm, tỉnh giác để đoạn tận các pháp bất thiện ấy.

 

But if, on examination, a monk knows, 'I usually remain uncovetous, without thoughts of ill will... & concentrated,' then his duty is to make an effort in establishing ('tuning') those very same skillful qualities to a higher degree for the ending of the effluents.

AN 10.51

 

Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo quán sát như vậy biết rằng : "Ta sống nhiều với tâm không tham với tâm không trầm thụy miên ; ta sống nhiều với tâm không trạo cử ; ta sống nhiều với tâm nghi ngờ được vượt qua ; ta sống nhiều với tâm không phẫn nộ ; ta sống nhiều với tâm không nhiễm nộ ; ta sống nhiều với thân không nhiệt nóng ; ta sống nhiều với tâm tinh tấn, tinh cần ; ta sống nhiều với tâm định tĩnh", thời Tỷ-kheo ấy, sau khi an trú trong các thiện pháp ấy, tồi hơn nữa cần chú tâm đoạn diệt các lậu hoặc.

AN 10.51

§ 23. Maha Kassapa: There is the case where a monk thinks, 'The arising of unarisen evil, unskillful qualities would lead to what is unbeneficial,' yet he arouses no ardor. 'The non-abandoning of arisen evil, unskillful qualities would lead to what is unbeneficial,' yet he arouses no ardor. 'The non-arising of unarisen skillful qualities would lead to what is unbeneficial,' yet he arouses no ardor. 'The ceasing of arisen skillful qualities would lead to what is unbeneficial,' yet he arouses no ardor.

 

This is what it means to be a person without ardor.

 

1)-- Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo suy nghĩ: "Các ác bất thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng khởi lên, chúng có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không khởi nhiệt tâm. "Các ác bất thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng không bị đoạn diệt, chúng có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không khởi nhiệt tâm. "Các thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu không khởi lên, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không khởi nhiệt tâm. "Các thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị đoạn diệt, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không khởi nhiệt tâm.

Như vậy, này Hiền giả, là không có nhiệt tâm.

 

And how is one a person without concern?

There is the case where a monk thinks, 'The arising of unarisen evil, unskillful qualities would lead to what is unbeneficial,' yet he feels no concern. 'The non-abandoning of arisen evil, unskillful qualities... The non-arising of unarisen skillful qualities... The ceasing of arisen skillful qualities would lead to what is unbeneficial,' yet he feels no concern. This is what it means to be a person without concern. This is how a person without ardor, without concern, is incapable of self-awakening, incapable of Unbinding, incapable of attaining the unexcelled security from bondage.

 

2) Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo suy nghĩ: "Các ác bất thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng khởi lên, chúng có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không có biết sợ. "Các ác bất thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng không bị đoạn diệt, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không biết sợ. "Các thiện pháp không khởi lên ta. Nếu chúng không khởi lên, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không biết sợ. "Các thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị đoạn diệt, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không biết sợ.Như vậy, này Hiền giả, là không biết sợ.

 

And how is a person ardent? There is the case where a monk thinks, 'The arising of unarisen evil, unskillful qualities would lead to what is unbeneficial,' and he arouses ardor. 'The non-abandoning of arisen evil, unskillful qualities... The non-arising of unarisen skillful qualities... The ceasing of arisen skillful qualities would lead to what is unbeneficial,' and he arouses ardor. This is what it means to be ardent.

 

3) Và này Hiền giả, thế nào là có nhiệt tâm?

Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo suy nghĩ: "Các ác bất thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng khởi lên, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy khởi nhiệt tâm. "Các ác bất thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng không bị đoạn diệt, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy khởi nhiệt tâm. "Các thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng không khởi lên, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy khởi nhiệt tâm. "Các thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị đoạn diệt, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy khởi nhiệt tâm. "Các thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị đoạn diệt, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy khởi lên nhiệt tâm.

Như vậy, này Hiền giả, là có nhiệt tâm.

 

And how is a person concerned?

There is the case where a monk thinks, 'The arising of unarisen evil, unskillful qualities would lead to what is unbeneficial,' and he feels concern. 'The non-abandoning of arisen evil, unskillful qualities... The non-arising of unarisen skillful qualities... The ceasing of arisen skillful qualities would lead to what is unbeneficial,' and he feels concern. This is what it means to be concerned. This is how a person ardent & concerned is capable of self-awakening, capable of Unbinding, capable of attaining the unexcelled security from bondage.

— SN 16.2

 

4) Và này Hiền giả, như thế nào là có biết sợ?

Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo suy nghĩ: "Các ác bất thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng khởi lên, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy có biết sợ. "Các ác bất thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng không bị đoạn diệt, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy có biết sợ. "Các thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng không khởi lên, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy có biết sợ. "Các thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị đoạn diệt, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy có biết sợ.

Như vậy, này Hiền giả, là có biết sợ.

 

§ 24. Sariputta: Imagine a bronze bowl brought back from a shop or a smith all covered with dust & dirt, that the owners would neither use nor clean, but would throw away in the dust. Wouldn't that bronze bowl eventually become even more dirty & defiled with time?

Maha Moggallana: Yes, my friend.

Sariputta: In the same way, when an individual with an internal blemish doesn't discern, as it actually is, that 'I have an internal blemish,' it can be expected of him that he won't generate desire, endeavor, or arouse persistence for the abandoning of that blemish. He will die with passion, aversion, delusion — blemished & with a mind defiled...

 

 

Này Hiền giả, giống như một cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về, phủ đầy bụi bặm, và người chủ cái bát ấy không dùng đến, không lau chùi và quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một thời gian càng ô nhiễm hơn, càng đầy bụi bặm hơn.

-- Này Hiền giả, sự thật là vậy.

-- Này Hiền giả, như vậy hạng người có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri: "Nội thân ta có cấu uế". Với người này, có thể chờ đợi như sau: "Người này sẽ không khởi lên ước muốn, sẽ không cố gắng, sẽ không tinh tấn để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong khi còn có tham, còn có sân, còn có si, trong khi còn cấu uế, trong khi tâm còn nhiễm"

Now imagine a bronze bowl brought back from a shop or a smith all covered with dust & dirt, that the owners would both use & clean, and would not throw away in the dust. Wouldn't that bronze bowl eventually become clean & pure with time?

Maha Moggallana: Yes, my friend.

Này Hiền giả, giống như cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về, phủ đầy bụi bặm, và người chủ cái bát ấy dùng đến, lau chùi và không quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một thời gian được thanh tịnh hơn, được sạch sẽ hơn.

-- Này Hiền giả, sự thật là vậy.

Now imagine a bronze bowl brought back from a shop or a smith all covered with dust & dirt, that the owners would both use & clean, and would not throw away in the dust. Wouldn't that bronze bowl eventually become clean & pure with time?

Maha Moggallana: Yes, my friend.

Sariputta: In the same way, when an individual with an internal blemish discerns, as it actually is, that 'I have an internal blemish,' it can be expected of him that he will generate desire, endeavor, & arouse persistence for the abandoning of that blemish. He will die without passion, aversion, delusion — unblemished & with a mind undefiled...

 

Này Hiền giả, giống như cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về, phủ đầy bụi bặm, và người chủ cái bát ấy dùng đến, lau chùi và không quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một thời gian được thanh tịnh hơn, được sạch sẽ hơn.

-- Này Hiền giả, sự thật là vậy.

-- Này Hiền giả, như vậy hạng người có cấu uế và như thật tuệ tri: "Nội thân ta có cấu uế". Với hạng người này, có thể chờ đợi như sau: "Người này sẽ khởi lên ước muốn, sẽ cố gắng, sẽ tinh tấn, để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong khi không còn tham, không còn sân, không còn si, trong khi không còn cấu uế, trong khi tâm không còn ô nhiễm".

 

 

Now imagine a bronze bowl brought back from a shop or a smith all clean & pure, that the owners would neither use nor clean, but would throw away in the dust. Wouldn't that bronze bowl eventually become dirty & defiled with time?

Maha Moggallana: Yes, my friend.

Sariputta: In the same way, when an individual with no internal blemish doesn't discern, as it actually is, that 'I have no internal blemish,' it can be expected of him that he will attend to the theme of beauty. As he attends to the theme of beauty, passion will despoil his mind. He will die with passion, aversion, delusion — blemished & with a mind defiled...

 

Này Hiền giả, giống như một cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về, thanh tịnh và sạch sẽ. Và người chủ cái bát ấy không dùng đến, không lau chùi và quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một thời gian, càng ô nhiễm hơn, càng bụi bặm hơn.

-- Này Hiền giả, sự thật là vậy.

-- Này Hiền giả, như vậy hạng người không có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri: "Nội thân ta không có cấu uế". Với người này có thể chờ đợi sau: "Người này sẽ tư niệm tịnh tướng. Do tư niệm tịnh tướng, tham sẽ làm ô nhiễm tâm của người này. Người này sẽ từ trần trong khi còn có tham, còn có sân, còn có si, trong khi còn cấu uế, trong khi tâm còn ô nhiễm".

Now imagine a bronze bowl brought back from a shop or a smith all clean & pure, that the owners would both use & clean, and would not throw away in the dust. Wouldn't that bronze bowl eventually become even more clean & pure with time?

 

Maha Moggallana: Yes, my friend.

Sariputta: In the same way, when an individual with no internal blemish discerns, as it actually is, that 'I have no internal blemish,' it can be expected of him that he won't attend to the theme of beauty. As he doesn't attend to the theme of beauty, passion won't despoil his mind. He will die without passion, aversion, delusion — unblemished & with a mind undefiled.

 

This is the reason, this is the cause why, of the two individuals who are blemished, one [the first] is reckoned to be inferior, and the other superior... and why, of the two individuals who are unblemished, one [the first] is reckoned to be inferior, and the other superior.

Maha Moggallana: Now this word, 'blemish, blemish.' What is the meaning of blemish?

Sariputta: Consorting with evil, unskillful wishes — this is the meaning of 'blemish.'

— MN 5

AN 8.23

 

Này Hiền giả, giống như một cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về, thanh tịnh và sạch sẽ và người chủ cái bát ấy dùng đến, lau chùi và không quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một thời gian, càng được thanh tịnh hơn, càng được sạch sẽ hơn.

-- Này Hiền giả, sự thật là vậy.

-- Này Hiền giả, như vậy hạng người không có cấu uế, và như thật tuệ tri: "Nội thân ta không có cấu uế". Với người này có thể chờ đợi như sau: "Người này sẽ không tư niệm tịnh tướng. Do không tư niệm tịnh tướng, tham sẽ không làm ô nhiễm tâm người này. Người này sẽ từ trần, không có tham, không có sân, không có si, không còn cấu uế, tâm không còn ô nhiễm".

Này Hiền giả Moggallana, do nhân này, do duyên này, trong hai người có cấu uế này, một người được gọi là hạ liệt, một người được gọi là ưu thắng. Này Hiền giả Moggallana, do nhân này, do duyên này, trong hai người không có cấu uế này, một người được gọi là hạ liệt, một người được gọi là ưu thắng.

-- Này Hiền giả, cấu uế gọi là cấu uế, danh từ gì là đồng nghĩa cái gọi là cấu uế?

 

-- Này Hiền giả, các ác bất thiện pháp, cảnh giới của dục là đồng nghĩa cái gọi là cấu uế.

— MN 5

AN 8.23

 

 

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước | Trang kế| trở về đầu trang | Home page |